CÂY ÐA LỐI CŨ
GỌI HỒN NGƯỜI XƯA
Phần 4B: Ðoạn kết -
Xuôi Nam (Nha Trang, Mũi Né, Ðà Lạt, Saigon)
Chặng đường từ Hội An vào Nha Trang có nhiều phong cảnh khác nhau và rất ngoạn mục. Tôi ngồi trong xe bus chụp hình lia lịa để làm kỷ niệm và giữ trong Hồ Sơ Hình Ảnh của tôi. Nhìn cảnh đồng quê Việt Nam, tôi cảm thấy thanh thản vô cùng. Tôi có cảm giác như tôi đang được trở về một cõi xa xôi, vui mừng nào đó. Những cảm nhận này thật là khó mà có thể diễn tả bằng giấy trắng, mực đen được. Xe cứ chạy, tôi cứ ngồi yên mà chụp hình và đón nhận những cảm nghĩ nội tâm. Tôi mừng rỡ cảm nhận thấy cái “mạch điện” trong người đang chạy ngon trớn như một cái computer vừa mới mua.
Lâu lâu, bác tài ghé vào một trạm xăng cho chúng tôi “ghé bến”. Nhà vệ sinh công cộng trên nhiều quốc lộ ở Việt Nam có tiêu chuẩn quá thấp so với các nơi khác trên thế giới. Tôi đã có dịp được nghe mấy bà đầm da trắng nói với nhau:
- Trong nhà vệ sinh này, mình phải “làm như thế nào” nhỉ?
Thật ra lần đầu tiên tôi cũng thấy ngỡ ngàng như họ nhưng tôi đã có dịp “học làm” trên chuyến xe lửa từ Hà Nội đi Lao Cai khi chúng tôi thăm viếng Sapa.
Chúng tôi bị kẹt xe gần 2 tiếng đồng hồ vì vụ đá lở trên đoạn đường đèo trước khi đến Nha Trang. Tới Nha Trang đã khuya, chúng tôi tạm trú 3 đêm tại một khách sạn gần bờ biển.
“Nha Trang là miền quê hương cát trắng...”
Bãi biển Nha Trang tương đối không quá đẹp so với những bãi biển khác trên thế giới nhưng đối với người Việt hải ngoại như tôi, tôi thấy nó rất đẹp vì tình cảm riêng biệt của tôi với quê hương cội nguồn. Chúng tôi lên thuyền để đi xem san hô. Tôi sẵn sàng dùng Camcorder để quay phim nhưng tôi thấy thất vọng vì san hô đã bị mất đi rất nhiều. Số san hô còn lại không đẹp như tôi kỳ vọng. Chúng tôi ghé Hòn Mun để tắm biển và ăn trưa.
Bãi tắm đẹp, không quá đông người và đặc biệt còn giữ được vẻ thiên nhiên. Tắm biển xong, nằm trên ghế dưới bóng cây, tôi liên tưởng đến một bãi biển tại vùng hẻo lánh tại Venezuela mà cuối thập niên 80 gia đình chúng tôi đã ghé thăm. Lần đi chơi đó, đoàn xe jeep đã đi xuyên qua rừng, qua núi và chúng tôi đã đứng ngay trong xe mà hái được vài quả xoài xanh trong lúc xe di chuyển. Bãi biển thật là hoang vu và rất thơ mộng. Ban trưa, họ cho chúng tôi ăn món cá nướng bọc trong lá chuối, ngon tuyệt trần đời. Trong lúc lim dim ngủ, tôi nghe thấy tiếng gà gáy ban trưa. Tại miền Châu Mỹ La Tinh xa xôi, hẻo lánh này, cả một thời nhỏ dại của tôi đã trở về làm cho tôi nhớ đến vần thơ của Lưu Trọng Lư:
“Mỗi lần nắng mới hắt ven song,
Xao xác gà trưa gáy não nùng.
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng,
Chập chờn sống lại những ngày không”
http://www.pbase.com/bac_ninh/nha_trang
Hai mươi năm về trước, tôi đã có những cơn buồn vời vợi, buồn vu vơ. Giờ đây, “mạch điện” của tôi đã “chạy” được rồi, tôi cảm thấy an vui hơn nhiều. Hy vọng rằng 30, 40 năm sau này, tôi sẽ được “sống thảnh thơi” hơn ở một cõi trời mới nào đó, một đi không trở lại!
BN đã sống ở Nha Trang khi gia đình mới di cư vào Nam nên BN hăm hở đưa tôi đi thăm thành phố này. Chúng tôi về thăm căn nhà cũ của gia đình BN tại đường Phan Ðình Phùng mà trước khi sang Canada định cư năm 1990, BN đã về thăm một lần. BN gặp hai người hàng xóm nay đã già và họ nhận ngay ra:
- Cô Nga, phải không?
Tôi chụp một số hình làm kỷ niệm cho BN sau một thời gian dài xa cách.
Ðồ biển Nha Trang ăn rất ngon. Theo lời đề nghị của BN, vợ chồng chúng tôi ăn đồ biển ở cái quán trên hè phố gần khách sạn. Ngồi uống bia và hóng gió biển mà lại được ăn tôm hùm nướng trên lò than hồng, tôi thấy thật là ... ấm bụng và ngon miệng lạ thường. Hạnh phúc biết bao!
Chúng tôi rời Nha Trang vào một buổi sáng sớm để trực chỉ Saigon. Tôi lại có dịp ngắm cảnh đồng ruộng, núi đồi Việt Nam và chụp hình lia lịa. Trên đường đi đến Mũi Né, chúng tôi ghé thăm Ðồi Cát Ðỏ. Ðồi Cát không cao lắm nhưng cũng đủ cao để làm cho chúng tôi thở hổn hển khi lên tới đỉnh đồi. Ở đây, du khách có thể đi trượt cát từ đỉnh đồi - giống như dân Bắc Mỹ đi tobogganing ngồi trên 1 miếng plastic trượt tuyết từ đỉnh đồi xuống vậy -. Vài cháu nhỏ đi theo chúng tôi:
- Chú ơi, chú ngồi lên miếng plastic này, cháu đẩy chú xuống!
Mục đích là để các cháu kiếm tiền để phụ giúp gia đình của các cháu. Tôi liên tưởng ngay tới cảnh con nít bên Canada khi đi “tobogganing” (trượt tuyết) trên các đồi tuyết băng trong mùa đông. Mặt mũi chúng đỏ hồng, khỏe mạnh trong bộ quần áo ấm mùa đông và được cha mẹ cho đi học tại nhà trường, học nhạc, học võ … Vẻ mặt chúng không lộ một chút ưu tư nào trong khi đó tại Việt Nam, rất nhiều cháu và cha mẹ chúng phải sống quá chật vật. Tôi đã thấy nhiều khẩu hiệu dao to búa lớn, trăm voi không được một bát nước sáo. Tôi chợt “ngộ” ra thế nào là Thiên Ðường Ma trong cái thế giới mà người Tây Phương mệnh danh là “Virtual World”! “Thiên đường” này đang “ngự trị” ngay tại quê hương của tôi!
Xe buýt đậu ngay trước khu du lịch Mũi Né. BN và tôi lấy hành lý để ở lại đây trong 2 ngày. “Phái đoàn” chúng tôi ăn bữa cơm trưa cuối cùng với nhau trước khi chúng tôi rẽ hướng.
Khu du lịch rất khang trang và có tiêu chuẩn quốc tế. Tôi có cảm giác như là tôi đang du lịch vùng Caribbean vậy vì phong cảnh, nhà cửa, thời tiết và nhiều du khách Âu Mỹ. Tôi thích nhất là được rửa chân bằng cái gáo dừa dùng để múc nước từ cái chum đặt ngay trước cửa của căn phòng. Bỗng dưng tôi nhớ đến cái bể nước trong căn nhà của bố mẹ tôi tại Bắc Ninh hồi tôi còn nhỏ dại.
BN và tôi đi thuyền thúng, phần vì không nỡ từ chối lời mời của “ông lái đò”, phần vì muốn “nếm mùi” đi thuyền thúng xem nó ra sao. “Ông lái đò” khoảng 40 tuổi, trông rất khỏe mạnh đưa cho chúng tôi hai cái áo phao để mặc cho an toàn. Tôi lại có dịp chụp hình các thuyền thúng, thuyền đánh cá và các hàng dừa chụp từ ngoài khơi Mũi Né nhìn vào bờ.
http://www.pbase.com/bac_ninh/da_lat_nam_cat_tien
Người lái đò kể cho chúng tôi biết về đời sống vất vả và nguy hiểm của những người đi đánh cá ngoài biển khơi:
- Bây gờ cháu chở các du khách như cô chú trên thuyền thúng để kiếm ăn. Ðời sống dễ chịu và đỡ nguy hiểm hơn. Lát nữa, nếu cô chú có thì giờ, cháu mời cô chú ghé thăm gia đình cháu.
Chúng tôi cũng đang muốn biết dân chúng vùng này sinh sống ra sao nên sau khi “thuyền ghé bến”, chúng tôi theo anh chàng lái đò vào xóm.
Chúng tôi ghé vào một quán nước và uống nước dừa do chính “ông lái đò chưa già” trèo lên cây dừa hái xuống cho chúng tôi. Chúng tôi men theo con đường nhỏ xung quanh có bụi tre, hoa dâm bụt, hàng dừa và tới nhà bà già vợ của anh ta. Quả như lời anh chàng mô tả, bà cụ bị một cái bướu trên mặt, che gần hết một con mắt bên phải, trông rất tội nghiệp. Hai cháu bé thấy chúng tôi đến, “e lệ” ra khoanh tay chào, một cử chỉ rất đặc biệt và rất Việt Nam. Tôi nhờ các cháu dẫn tôi ra đằng sau để thăm vườn dừa và vườn đu đủ. Tôi ngửi thấy một mùi thơm nhẹ nhàng, là lạ nhưng lại rất là quen thuộc. Hoá ra đó là mùi hoa dừa, giống như mùi hoa cau tại Bắc Việt mà sau hơn 50 năm tôi mới tìm lại được!
Trước khi từ giã, chúng tôi tặng bà cụ, các cháu nhỏ và mọi người trong gia đình một số tiền “làm quà”. Người cảm thấy vui sướng nhất, có lẽ là vợ chồng chúng tôi nhưng tiếc rằng những cảm xúc này tôi không thể diễn tả trên giấy bút được! Kỷ niệm Mũi Né thật là khó quên và nhẹ nhàng!
Chúng tôi lấy xe đò từ Mũi Né đi Ðà Lạt. Trên xe, chúng tôi gặp HT cùng chồng người Na Uy và 2 con nhỏ về thăm Việt Nam. HT đã truyền “bí kíp” cho BN:
- Cô ơi, tới Ðà Lạt là cháu để ông xã và hai cháu nhỏ trong hiệu ăn để mình cháu đi kiếm khách sạn. Dễ lắm, chẳng cần phải “book” trước làm gì cho tốn tiền!
Quả nhiên là khi đến Ðà Lạt, HT kiếm ngay được khách sạn giá rẻ, ưng ý và cũng ở gần khách sạn của chúng tôi mà BN đã đặt cọc khi chúng tôi còn ở Mũi Né.
BN và tôi rất ớn cái vụ đì ăn ngoài vì cứ nghĩ đến vụ Quan Tào rượt đuổi là tôi muốn … đào tẩu liền! BN và HT kiếm được một khách sạn khác tại Ðà Lạt có bếp cho du khách sử dụng. Thế là hai cặp chúng tôi và hai cháu nhỏ được ăn ốc luộc, rau cần xào, cá rán, canh rau đay, cà pháo và dưa cải muối. Toàn là món ăn gia đình do hai nội tướng trổ tài, ăn vào rất là … hả dạ! Ðặc biệt là chồng của HT tuy là người Na Uy nhưng đồ ăn Việt Nam thì anh chàng không chê món nào hết.
Thung Lũng Tình Yêu rất là thơ mộng và an bình. Ngồi bên bờ hồ, trong cái không khí lành lạnh của Ðà Lạt, tôi ước mong được ở lại Ðà Lạt trong một thời gian dài để thỏa mãn cái thú đam mê trồng lan của tôi. Chúng tôi đi xem vài nơi triển lãm lan: Ðà Lạt có khí hậu lý tưởng để trồng một số Phong Lan và Ðịa Lan, quá tốt so với cái khí hậu lạnh khắc nghiệt tại Canada - nơi tôi cư ngụ!
Buổi sáng sớm, tôi chỉ thích đi mua xôi lạc (xôi đậu phụng), gói lớn giá 3000 đồng Việt Nam (chừng 20 xu Canada). Tôi mang về phòng khách sạn, pha một ly nước a tê sô, xôi ăn vừa bùi, vừa no bụng lại vừa đỡ bị đau bụng như khi tôi ăn phở tại Việt Nam. Một hôm trong lúc mua xôi, tôi thấy mấy cô nữ sinh mặc đồng phục: áo dài trắng, quần trắng, áo len mầu xanh đậm. Các cô với đôi má đỏ hồng đã làm tôi nhớ lại những tà áo dài đồng phục của các nữ sinh Trưng Vương, Gia Long của thuở tôi còn đi học Trung Học tại Sài Gòn. Tôi được biết các cháu là nữ sinh của Trường Bùi Thị Xuân và tôi hỏi các cháu đường đi đến trường Bùi Thị Xuân.
Sáng hôm sau, trong khi BN ra chợ Ðà Lạt, tôi mang máy hình và đi bộ tới trường Bùi Thị Xuân. Trường này và tôi có một quan hệ rất là đặc biệt: tôi có một bà chị (chị TND, chị là dì ruột của hai con trai tôi) đã từng dậy học tại đó trước năm 1975. Trước khi chị TND mất tại Canada vào năm 2004, chị đã từng say mê kể cho tôi nghe những năm chị đi dậy tại Ðà Lạt. Ðịnh mệnh cuộc đời đã chia rẽ hai chị em chúng tôi sau khi tôi lặng lẽ ra sống riêng một mình và tôi chỉ “gặp lại chị” trong lúc tang lễ của chị. Ngày chị mất, tôi không khóc mà chỉ thấy một nỗi buồn lê thê, dài đằng đẵng. Tôi chụp hình hôm đám ma của chị và tôi đã làm 4 câu thơ viết tặng chị khi tiễn đưa chị lần cuối cùng:
Tiễn chị về lại Cõi Trời,
Còn em ở lại với đời Trần Gian.
Cầu mong chị sống an nhàn,
Ở nơi Vĩnh Cửu, thênh thang tiếng cười.
Chắc là Tâm Thức của tôi đã thúc dục tôi thả bộ đến trường Bùi Thị Xuân như để tôi thăm viếng chị hay là để thăm viếng ngôi trường dùm cho chị vậy. Tôi hỏi thăm người gác cửa và vài người giáo sư trẻ nhưng họ không biết chị là ai hết. Một vị giáo sư trẻ nói với tôi:
- Chú vào hỏi thẳng bà Hiệu Trưởng họa may bà ấy biết cô TND là ai!
Bà Hiệu Trưởng cho tôi biết ngày xưa chị TND của tôi đã từng là giáo sư hướng dẫn của lớp bà khi bà học lớp 9 tại trường Bùi Thị Xuân! Bà hỏi thăm chị tôi bây giờ ra sao, ở đâu … Sau khi tôi báo tin cho bà biết chị tôi đã mất vào năm 2004, tôi xin phép được đi thăm trường và chụp vài tấm hình trường cũ của chị, coi như là một món quà tinh thần mà tôi muốn tặng riêng cho chị, một một kỷ niệm đặc biệt của hai chị em chúng tôi.
Tối hôm đó, tôi mơ ngủ thấy chị đang tươi cười ngồi trong 1 cái xe “van”. Ðặc biệt là chị ngồi ngay bên cạnh mẹ tôi. Cả chị và mẹ tôi cùng đang tươi cười vẫy tay chào tôi - Trên thực tế, chị và mẹ tôi chưa hề bao giờ quen biết nhau. Mẹ tôi đã mất 26 năm trước khi tôi gặp chị lần đầu tiên vào năm 1981 khi chị tới định cư tại Canada - Tôi bàng hoàng thức giấc. Sau khi tôi uống một ly nước, đi toilet, tôi ngủ tiếp. Trong giấc mơ lần thứ hai, tôi lại tiếp tục nhìn thấy chị và mẹ tôi vẫn đang tưoi cười vẫy chào tôi từ trong cái xe “van”, giống hệt như hình ảnh của giấc mơ đầu tiên. Tôi cảm thấy vui vẻ và tôi lại thức giấc. Tôi đi rửa mặt cho “tỉnh ngủ” để biết chắc là tôi thực sự đã mơ lần thứ hai trước khi tôi vào giường để ngủ tiếp. Thế rồi tôi lại mơ ngủ và trong giấc mơ này, tôi cũng lại nhìn thấy chị và mẹ tôi vẫn tươi cười vẫy tay như để gọi tôi hay vẫy tay chào tôi trước khi xe đi. Tôi chẳng hề sợ hãi hay buồn bã mà trái lại, tôi cảm thấy an vui vô cùng vì tôi đã “gặp” được hai người đàn bà mà tôi thương mến vô cùng.
Tôi đã có nhiều giấc mơ lạ lùng trong nhiều năm trước đó nhưng chưa bao giờ trong một đêm tôi mà tôi lại có cùng một giấc mơ trong 3 lần mơ ngủ liên tiếp! Chẳng lẽ chị tôi đã thực sự về báo mộng cho tôi biết rằng chị rất vui mừng khi thấy tôi về thăm trường cũ dùm chị? Mà tại sao lại có mẹ tôi đi cùng xe “van” với chị? Phải chăng là mẹ tôi hiện về trong giấc mơ này như là một người “bảo chứng” (collateral) báo mộng cho tôi biết đây không phải là một giấc mơ mà thực sự là một tín hiệu tâm linh? Chẳng lẽ mẹ tôi và chị đã có liên hệ với nhau trong tiền kiếp và đang vui vẻ “đoàn tụ” với nhau? Giá lúc đó mà tôi được theo mẹ tôi và theo chị “cùng đi du lịch”, chắc là tôi sẽ đi theo ngay lập tức vì tôi cảm thấy rất vui và chẳng hề sợ ma hay sợ Cõi Âm gì hết!
BN, HT và tôi đi thăm một Cô Nhi Viện tại một ngôi chùa ở Ðà Lạt. BN đã mua mì gói, kẹo bánh, sữa hộp và thuê một chiếc xe mang đến tặng cho các cháu mồ côi. Trong khi tôi mải chụp hình các cháu mồ côi và ngôi chùa, BN và HT thi nhau bồng bế các cháu bé. Tại đây tôi cũng được chiêm ngưỡng hàng trăm chậu Lan Ðất đang ra hoa mà nhà chùa sẽ đem bán để lấy tiền trang trải cho các khoản chi tiêu. Buổi tối hôm đó, HT ghé thăm chúng tôi tại khách sạn và tặng vợ chồng chúng tôi vài tấm hình. Ðặc biệt là sau mỗi tấm hình, HT đã ghi vội vài vần thơ mà HT reo vần chớp nhoáng. Xin đơn cử một bài thơ của HT (một cô gái thuyền nhân rời Việt Nam lúc 9 tuổi!)
Số phận của bé gái đội nón
Ai đã bỏ em dưới gốc xoài
Mới được hai ngày, tuổi lạc loài
Thơ ngây dương mắt nhìn nhân thế
Một thoáng tia buồn, dương mắt nai.
HT
Chúng tôi đón xe đò về Saigon sau 9 ngày sống êm ả tại Ðà Lạt. Tôi không cảm thấy nao nức cho lắm nhưng khi xe đã vào đến đường Nguyễn Huệ và tôi bắt đầu nhận ra những con đường chính của Saigon, tôi thấy rất nôn nao và náo nức muốn được gặp bà con và bạn bè. Tôi cũng muốn thấy “con đường Duy Tân cây dài bóng mát” của BN trong những năm BN học Luật … Nhưng Saigon cũng như Hà Nội đã “gây ấn tượng” khó quên cho tôi: xe cộ quá đông và không tôn trọng luật lệ giao thông, thành phố quá đông người, dầy ô nhiễm về cả âm thanh lẫn không khí! Tôi đã được bạn bè dặn dò chớ nên đi lêu bêu chụp hình tại Saigon để tránh vụ bị cướp giật. Tôi không còn cảm thấy được yên ổn như khi còn ở Sapa, Hạ Long, Tam Cốc, Ðà Lạt, Mũi Né, Nha Trang, Hội An hay Huế nữa. Chúng tôi ăn mặc rất giản dị khi ra khỏi nhà.
http://www.pbase.com/bac_ninh/saigon
Một hôm cháu tôi đến đón tôi bằng xe Honda và đưa tôi về thăm căn nhà cũ của thân phụ tôi ngày xưa tại đường Yên Ðổ. Sau khi rẽ vào hai đường hẻm, cháu nói:
- Nhà cũ của ông đây rồi, cậu ơi!
Tôi ngỡ ngàng, ngờ vực lời cháu tôi nói vì cảnh vật đã quá thay đổi.
- Cậu nhìn số nhà thì cậu sẽ thấy là đúng nhà của ông ngày xưa!
Ðúng là số nhà rồi nhưng mà tôi vẫn chẳng tin được. Phải chăng là tôi đã không tìm được những hình ảnh xa xưa của căn nhà 44 năm về trước? Tôi nói cháu tôi chở tôi đi nơi khác ngay lập tức vì tôi đang bị “shocked”. Vài hôm sau, tôi đi xe ôm và mang theo máy hình để mà “muốn gì thì muốn, ta phải chụp hình cái đã”! Kỳ này tôi đỡ bị “shocked” hơn. Tôi đi bộ vào cái hẻm bên hông căn nhà để nhìn lên cái balcon mà ngày xưa, vào buổi chiều, tôi thường ra ngồi hóng gió. Tôi thấy cửa sau của căn nhà đang mở và tôi ghé mắt nhìn vào bên trong. Thật là tối tăm và bừa bộn. Tôi chạy vội ra phía trước nhà để nhìn vào trong căn nhà. Mặt tiền đã hoàn toàn được sửa lại. Tôi lặng người nghĩ tới tấm bảng đen ở trong phòng khách mà cha tôi đã thuê người đóng cho ba anh em chúng tôi giải các bài toán hình học. Ngày xưa, một người bạn đã viết thư sang Úc báo tin cho tôi biết rằng vài tháng sau khi tôi đã đi du học, cha tôi vẫn không cho ai xóa những dòng chữ tôi viết trên bảng, chỉ vì lòng thương nhớ con trai nay đã xa nhà! Ôi tấm bảng đen, đâu ngờ là anh Pháp và tôi cũng đã nối gót tổ tiên và thân phụ chúng tôi để trở thành các nhà giáo, suốt đời gắn bó với phấn trắng, bảng đen, sách vở và học trò!
Tôi gặp lại mấy người cháu họ. Trong đám này, khi tôi rời Việt Nam 44 năm về trước, cô chị lớn mới học lớp vỡ lòng và có nhiều lần tôi đã đi đón cháu khi tan trường. Gặp các cháu, tôi vừa mừng, vừa thương. Mừng vì đã quá lâu, chú cháu chúng tôi mới gặp lại nhau. Thương là vì các cháu không được đi học Ðại Học vì cha chúng được “mệnh danh” là “ngụy” và đã chết trong trại cải tạo tại nơi rừng thiêng nước độc ở ngoài Bắc. Tôi thấy nghẹn ngào cho các cháu vì một số các anh chị của chúng đã khá thành công tại Bắc Mỹ: ở hải ngoại, các cháu tôi đã được tự do đi học đại học để rồi có công ăn, việc làm chắc chắn như người dân Bắc Mỹ vậy. Thế nào là “”Ðộc Lập, Tự Do và Hạnh Phúc” nhỉ? Tôi chợt nhớ đến cuốn truyện “Trại Súc Vật” (Animal Farm) của George Orwell với câu viết bất hủ: ”Các con vật đều được bình đẳng nhưng có một số con vật được bình đẳng nhiều hơn”!
Tại Saigon, tôi thấy vui mừng khi gặp lại được một số bạn bè đang làm việc tại Việt Nam và một số khác cũng đang về thăm Việt Nam như tôi. Họ đã từng đi du học trong chương trình Colombo Plan ở Úc với tôi. Bốn mưoi năm về trước, chúng tôi đã từng tham dự những sinh hoạt tập thể: tổ chức tết, ra Ðặc San, tổ chức triển lãm, đi picnic, ra thư viện học thi cùng với nhau … Giờ đây chúng tôi đã trở thành những chuyên gia trong rất nhiều ngành nghề tại Việt Nam, Úc, Hoa Kỳ, Canada. Sau 37 năm tôi mới gặp lại một số bạn bè nên tôi tham dự luôn cả 3 lần họp mặt để tha hồ mà hàn huyên tâm sự cho thỏa chí.
Về đến Saigon, BN và tôi cảm thấy “mỏi gối” nên muốn ở lỳ tại Saigon trong ít lâu để cho tôi có cơ hội kiếm lại những hình ảnh, những con đường, những cảm xúc của tuổi mới lớn sau khi gia đình chúng tôi di cư từ Hà Nội vào Saigon.
Khi bước chân vào sở thú với BN và khi đi bộ dưới hàng cây, tôi thấy vui buồn lẫn lộn: cô bạn gái đầu đời của tôi đã từ giã Cõi Tạm này rồi và người bạn cuối đời của tôi là BN đã biết hầu hết các cuộc tình trong đời tôi. Giá không có BN đi cùng với tôi, chắc tôi không dám về thăm “con đường ngày xưa em đi” này đâu vì nó sẽ gợi lại cho tôi biết bao nhiêu là kỷ niệm đầu đời rất là khó quên.
Tôi thấy vui nhẹ nhàng khi bước vào các hiệu sách tại Saigon vì tôi nhớ lại hiệu sách Khai Trí ngày xưa. Thân phụ chúng tôi đã không tiếc tiền khi anh em chúng tôi mua sách nhưng cụ không muốn chúng tôi đi coi Ciné!
Hơn 40 năm qua, tôi đã từng vào các hiệu sách bên trời Tây Phương, chỉ thấy toàn là sách tiếng Anh, tiếng Pháp làm cho tôi thấy hụt hẫng, nhớ nhung những cuốn sách tiếng Việt. Rất tiếc là là tôi không có đủ chỗ, đủ ký lô trong valise để “tha về” các sách Việt Nam mà tôi thích đọc trong những đêm vắng lặng.
Tôi thích đi bộ vào những con đường hẻm để nhận xét đời sống của Saigon ngày nay để rồi tôi hồi tưởng lại quãng đời Trung Học của tôi ngày xưa. Cũng vì vậy mà vợ chồng chúng tôi tạm trú tại nhà bà con thay vì ở khách sạn. Nếu chúng tôi ở khách sạn, tôi sẽ cảm thấy thành phố này rất xa lạ và sẽ có một khoảng cách giữa Saigon và tôi trong tình huống của một du khách. Vợ chồng chúng tôi thích đi xe bus lên Chợ Bến Thành đi xem hàng hóa, mua quà kỷ niệm cho con cháu rồi ngồi ăn hàng. Cũng may là bao tử của tôi đã bắt đầu “có tiến bộ” và tôi không còn quá hãi hùng với hình ảnh của Quan Tào nữa. BN và tôi mê nhất việc mua quà sáng từ các hàng gánh rong. Không gì sướng bằng được uống một ly nước mía vừa mới được ép mà không còn bị đau bụng nữa. Chỉ tội là tôi thấy vòng bụng của tôi “có vẻ” càng ngày càng phát triển tỉ lệ thuận theo cái đà “phát tướng” của tôi mà thôi!
Hôm nay khi ngồi viết tiếp phần cuối của bài viết dưới bóng cây bên bờ hồ Lake Ontario trong buổi trưa hè oi ả, tôi nhớ lại đoạn chót của chuyến về thăm quê hương. Cơn gió mát thổi từ ngoài hồ vào dường như đã mang cái tươi mát, cái tĩnh nội tâm lại cho tôi. Tôi đã được đi thăm nhiều nơi tại Việt Nam mà trong vòng bao nhiêu năm tôi vẫn hằng nhớ đến. Tôi đã được toại nguyện với điều đó. Tôi đã được “đối thoại” với nhiều người thân thương trong gia đình qua vụ Gọi Hồn. Tôi đã được đi từ ngạc nhiên này qua nhiều ngạc nhiên tâm linh khác. Giờ đây, tôi không còn phải băn khoăn và bận tâm với các câu hỏi về phần hồn, phần xác, thế nào thực sự là quê hương và thế nào là “sống” với “chết” nữa. Tôi đang an nhàn đi kiếm và đọc thêm những tài liệu về tâm linh qua cái nhìn của người Tây Phương và người Ðông Phương. Tôi hoàn toàn tin vào thuyết Nhân Quả. Tôi tin rằng người đời có thể may mắn tránh được cái sơ hở của luật pháp trong Cõi Trần nhưng lưới trời lồng lộng, những điều sai quấy và những hành động dã man, độc ác, tham nhũng...sẽ chẳng thể nào qua được Luật Trời Ðất. Nhân nào, quả ấy; ở hiền, gặp lành; có vay và có trả!
Cơn gió mát đang thổi từ mặt hồ vào và nghe đâu đây có tiếng chim hót. Tôi ngồi duỗi chân và tiếp tục viết cho xong đoạn kết này. Tôi sẽ nhắm mắt để đánh một giấc ngủ trưa hè bên bờ hồ “cho nó đả”. Sau khi thức giấc, tôi sẽ gập chiếc ghế vải này, bỏ vào bao rồi đeo trên vai. Tôi sẽ thong thả đi bộ ra xe và lái về nhà bạn tôi để ăn cơm chiều với bạn bè và BN. Ngày mai, tôi sẽ đi tản bộ vào buổi sáng, về nhà đọc sách và buổi chiều tối tôi sẽ dậy kèm cho mấy cháu học sinh gốc Việt Nam.Thì cứ coi như là cái Cõi Tạm này cũng có cái an nhàn của nó cho tới khi tôi thay hình, đổi dạng và bước sang một “cõi trời mới”. Thì cứ coi như là ngoài những chuyến du lịch trên Cõi Trần này, tôi còn có nhiều chuyến du lịch tâm linh khác nữa, có gì là khác lạ đâu cơ chứ?
Xin tạ ơn Trời Ðất. Cũng xin cám ơn nhiều quý vị đã ủng hộ tinh thần cho tôi và kiên nhẫn chờ tôi trong những lúc tôi ngồi viết và đánh máy mổ cò cho loạt bài viết này.
Một lần nữa, xin đa tạ.
Ðàm Trung Phán.
Sept.15, 2007
Canada
*******
Để xem những phần đã đăng, xin theo các links sau đây :
Phần 1 : Việt Nam Quê Hương Tôi
Phần 2 : Gọi Hồn Người Xưa
Phần 3 : Cảm Xúc và Những Tín Hiệu Kỳ Lạ
Phần 4 A : Xuôi Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét